Friday, November 1, 2013

Bài thuốc cây xạ đen và hiệu quả điều trị ung thư

Bài thuốc cây xạ đen và hiệu quả điều trị ung thư

(VietNamNet)

- Thời gian gần đây, một phòng khám của Hội Đông y tỉnh Hoà Bình trở nên tấp nập từ sáng đến đêm. Hầu hết người đến đây chờ bắt mạch, kê đơn là bệnh nhân ung thư, với hy vọng khỏi chứng nan y nhờ bài thuốc có đầu vị là cây xạ đen do một cố lương y dân tộc Mường để lại.
Mế Hậu - người tìm ra bài thuốc cây xạ đen bắt mạch cho bệnh nhân.

Sáng 14/3 ở phòng khám Đông y số 6 (số 35, tổ 7, đường Nguyễn Thái Học, phường Đồng Tiến, thị xã Hoà Bình), nơi bà Đinh Thị Phiển - con gái cố lương y Bùi Thị Bẻn (còn gọi là Mế Hậu) bắt mạch, kê đơn, bà Vũ Việt Anh (Ba Đình, Hà Nội) bị ung thư vòm nói: "’Tôi vừa xạ trị 30 mũi ở Bệnh viện K, nghe tin bài thuốc cây xạ đen, tìm về đây xin bốc uống, mong đỡ bệnh".

Cũng như bà Việt Anh, gần 30 bệnh nhân ung thư và người nhà tìm đến phòng khám của lương y Đinh Thị Phiển xin thuốc cây xạ đen sáng hôm ấy đều không hy vọng thoát căn bệnh khoa học còn bó tay này, vì "nếu khỏi, bài thuốc đã giật giải Nobel". Hầu hết đều chỉ mong muốn nhờ bài thuốc có xạ đen mà giảm triệu chứng mệt mỏi, đau đớn của căn bệnh hiểm và kéo dài tuổi thọ.

Phóng viên VietNamNet đã tìm gặp một số người bệnh ung thư may mắn đỡ đau, khoẻ lên sau khi uống các thang thuốc với đầu vị là xạ đen bà lương y Phiển bốc cho họ. Ông Phạm Văn Bài - bệnh nhân ung thư phổi 53 tuổi ở thôn Thị Đức, xã Nhật Tân, huyện Gia Lộc, Hải Dương, cho biết, sau khi ông được bệnh viện tỉnh cho về nhà điều trị, gia đình đã mang hồ sơ bệnh án đến lương y Phiển và xin bà cho thuốc. Ông không ngờ sau khi uống 3 thang, bệnh chuyển. 20 thang tiếp, ông đã nói ra tiếng, người nhẹ hơn. 30 thang sau nữa, ông bắt đầu ăn ngủ được, thể lực khá hẳn.

Một bệnh nhân khác cũng ngạc nhiên trước sự thay đổi chất lượng cuộc sống rõ rệt mà những thang thuốc sắc bình dị này mang lại. Nguyên phi công Nguyễn Văn Tụ (số 2, tổ 97, phường Chương Dương, Hoàn Kiếm, Hà Nội) sau khi được bệnh viện chẩn đoán là ung thư dạ dày và không mổ đã dùng 30 thang thuốc có xạ đen, cảm thấy trạng thái toàn thân dễ chịu từng ngày, các cơn đau ít và đỡ dần; nay đã tự túc trở lại mọi sinh hoạt cá nhân.

Ông Bài, ông Tụ và các bệnh nhân ung thư khác đều được lương y Đinh Thị Phiển bắt mạch, xem xét kỹ hồ sơ bệnh án (với các kết quả xét nghiệm và chẩn đoán lâm sàng của y học hiện đại) rồi kê thuốc với lượng nhiều ít xạ đen, đinh râu, xạ bái và các vị khác tuỳ loại và mức độ bệnh.

Mỗi người chỉ tốn trên dưới 1 triệu đồng tiền thuốc cho đến lúc chuyển bệnh và khoẻ lại.

Khoa học đã công nhận bài thuốc cây xạ đen

Nhiều chục năm trước, cây xạ đen (hay xạ đen cuống, tiếng Mường gọi là Xạ cái) từng được lương y dân tộc Mường Bùi Thị Bẻn (bệnh nhân thường gọi là mế Hậu, ở huyện Kim Bôi, Hoà Bình) đặt tên là cây ung thư, chuyên dùng để chữa các loại u khối. Bài thuốc cây xạ đen, dù sau đó được mế tặng cho Hội Đông y tỉnh Hoà Bình, vẫn ít người biết đến.

Chỉ kể từ năm 1987, khi được đoàn bác sĩ Học viện Quân y (do GS.TSKH Lê Thế Trung - Chủ tịch Hội Ung thư TP.Hà Nội dẫn đầu) phát hiện trong chuyến sưu tầm các bài thuốc quý trong dân gian, cây xạ đen mới bắt đầu thu hút sự chú ý của giới khoa học và được đưa về cơ sở này để nghiên cứu.

Qua nghiên cứu về thực vật học, hoá dược, dược lý, nghiên cứu thực nghiệm trên động vật được gây ung thư (theo đề tài cấp Bộ về xạ đen do GS. Lê Thế Trung làm chủ nhiệm), các bác sĩ đã phát hiện ở loài cây này tác dụng hạn chế sự phát triển của khối u ác tính. Hơn nữa, theo GS. Trung, hợp chất lấy từ xạ đen nếu được kết hợp với chất Phylamin (lấy từ một loại thảo dược ở đồng bằng) còn phát huy tác dụng, kéo dài tuổi thọ trung bình của động vật bị ung thư hơn nhiều chất đã qua nghiên cứu thực nghiệm như Trinh nữ hoàng cung hay tỏi Thái Lan.

Đến cuối năm 1999, đề tài của các bác sĩ Học viện Quân y được nghiệm thu, cây xạ đen chính thức được công nhận là một trong không nhiều những vị thuốc nam có tác dụng điều trị hỗ trợ bệnh nhân ung thư. Cuối năm 2002, người bệnh mới biết đến loài cây này qua câu chuyện của GS. Trung trong Chương trình Người đương thời (VTV3) và tìm về phòng khám Đông y nơi con gái mế Hậu - lương y Đinh Thị Phiển làm việc ngày một đông.

Cẩn thận với xạ đen rởm

Từ khi được nhiều người biết đến, xạ đen trở thành đối tượng chính của dân săn dược liệu. Từ đầu năm Quý Mùi, xạ đen khan hiếm hơn, giá thị trường tăng từ 50.000 đồng lên 150.000-200.000 đồng/kg khô. Phòng khám của lương y Đinh Thị Phiển trở thành nơi tiếp không chỉ bệnh nhân và người nhà; dân buôn dược liệu thi thoảng cũng ghé qua xin bà xem giúp những thứ cây nhét chặt trong các bao của họ có đúng là loài cây quý.

Lương y Đinh Thị Phiển cho biết, có đến 3/4 số cây bà được hỏi không phải là xạ đen; phần lớn là cây thuỷ bồ (hoặc thạch xương bồ, nếu mọc trên đá). Những loài cây này cũng có lá xanh và chát gần giống lá chè nhưng không lớn hoặc sẫm bằng xạ đen. Đặc biệt, không chuyển màu đen mực ngay sau khi bị băm nhỏ như loài dược thảo quý này.

Bà Phiển dự đoán, những thứ xạ đen giả nói trên sẽ được tải về các kho thuốc đông y và cắt cho bệnh nhân nhiều tỉnh.

Còn ở nhà bà lương y nối nghiệp trị bệnh, cứu người của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác và người mẹ đã quá cố, cây xạ đen sẽ mãi là thật, dù người ta có nhao nhác đi tìm của giả để thay thế và nguyên liệu thuốc có tăng giá đến đâu. Để người bệnh ung thư còn chí ít là một trong mười phương được sống và sống chất lượng nhất trong khả năng có thể.

* Quảng Hạnh

http://www.ykhoanet.com/yhoccotruyen/baiviet/29_042.htm

Màu tím. phòng ngừa nguy cơ ung thư ruột

Màu tím. phòng ngừa nguy cơ ung thư ruột ; Các nghiên cứu khoa học còn chỉ ra rằng chúng có tác dụng đặc biệt với bộ não

Đây là các loại rau, quả có chứa chất hóa học mang tên anthocyanin, giúp tăng cường quá trình tiêu hóa, giảm hàm lượng cholesterol xấu trong máu, phòng ngừa nguy cơ ung thư ruột và vú. Các nghiên cứu khoa học còn chỉ ra rằng chúng có tác dụng đặc biệt với bộ não và với người cao tuổi.

http://www.angi.com.vn/an-gi/song-khoe/1374-giai-ma-mau-sac-rau-cu

Bắp cải ngăn ngừa ung thư bàng quang

Bắp cải ngăn ngừa ung thư bàng quang

Published June 5th, 2008

(VNC-TH) Một chế độ ăn nhiều rau bắp cải sẽ giúp phòng chống căn bệnh ung thư bàng quang, một bệnh xảy ra phổ biến ở cả đàn ông và đàn bà.
Nhà khoa học Rex Munday tại New Zealand cho biết các cuộc kiểm tra trên động vật cho thấy một chiết xuất trong mầm cây cải làm giảm nguy cơ bị nhiễm ung thư bàng quang xuống 50%.
Nghiên cứu trước cũng tìm thấy những con chuột được ăn rau họ cải bắp như súp lơ, bông cải xanh, cải xoong, cải bruxen đều gia tăng các enzyme giúp phòng chống các hóa chất gây ung thư.
“Hiệu quả lớn nhất được thấy ở bàng quang, điều đó chứng tỏ các loài rau này giúp ngăn ngừa bàng quang bị hủy hoại”, Munday nói.
Ung thư bàng quang xảy ra nhiều ở các nước phương Tây, với hơn 300.000 người được phát hiện mỗi năm. Nó là căn bệnh ung thư phổ biến thứ 4 ở đàn ông và thứ 8 ở đàn bà.

http://phunucali.com/hq/archives/2820

Saturday, October 12, 2013

mua ban hat chum ngay

mua ban hat chum ngay http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6/cay_chum_ngay_vi_thuoc_quy.pdf http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 http://www.mediafire.com/download/ux68n2qbghu3mm6 mua bán hạt chùm ngây cây chùm ngây vị thuốc quí Tiến sỹ THÍCH THIỆN MỸ 560/TA- Ấp Tân An-Xã Tân Thành Huyện Lai Vung – Đồng Tháp DD: 0939.826271 Email : thienmy.thich@gmail.com Chùm ngây: loài cây vạn năng cho vùng sinh thái khắc nghiệt Cây chùm ngây còn được gọi là "cây phép mầu", "cây thần diệu", hay "cây phép lạ", bắt nguồn từ tên tiếng Anh là "Miracle tree" Tiếng Ấn Độ là “ Moringa”. Thật vậy, đây là một loài cây đa tác dụng hay nói cách khác là cây vạn năng (multipurpose tree), vì ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là các vùng đang phát triển ở châu Á và châu Phi, nó được xem tài nguyên vô giá, chống nạn thiếu dinh dưỡng, Thông tin chi tiết về cây chùm ngây bảo vệ sức khỏe cộng đồng và phòng hộ giảm nhẹ thiên tai. Ngoài khả năng cung cấp chất dinh dưỡng, các bộ phận của cây chùm ngây còn có dược tính phổ rộng, được dùng để điều trị rất nhiều bệnh khác nhau. Chính nền y học cổ truyền của Ấn Độ cũng đã xác định được 300 bệnh khác nhau được điều trị bằng lá của cây này. 1. Về dinh dưỡng học: cây chùm ngây đã thể hiện được rằng, hầu hết các bộ phận sống của nó có chứa đủ các thành phần dinh dưỡng, có thể giúp ích cho sự sống của con người và động vật. 1.1. Lá cây được dùng làm rau ăn (lá, chồi, cành non và cả cây con được dùng trộn dầu dấm ăn thay rau diếp), làm bột cà-ri, ủ chua làm gia vị, làm trà giải khát... Ở châu Phi, nó được dùng để chống suy dinh dưỡng cho trẻ con. Lá chùm ngây chứa nhiều vitamin và muối khoáng có ích, với hàm lượng rất cao: vitamin C cao gấp 7 lần trong cam, provitamin A cao gấp 4 lần trong cà-rốt, calcium cao gấp 4 lần trong sữa, potassium cao gấp 3 lần trong chuối, sắt cao gấp 3 lần trong rau diếp, và ngay cả protein cũng cao gấp 2 lần trong sữa. Ngoài ra, nó còn chứa nhiều vitamin B, các acid amin có lưu huỳnh như methionin, cystein và nhiều acid amin cần thiết khác. Do vậy, lá chùm ngây được xem là một trong những nguồn dinh dưỡng thực vật có giá trị cao. Trong 100 g bột lá sấy khô có: calori 205, protein (g) 27,1, chất béo (g) 2,3, carbohydrate (g) 38,2, chất xơ (g) 19,2, Ca (mg) 2,003, Mg (mg) 368, P (mg) 204, K (mg) 1,324, Cu (mg) 0,57, Fe (mg) 28,2, S (mg) 870, acid oxalic (mg) 1,6%, vitamin A-β carotene (mg) 16,3, vitamin B1 - thiamin (mg) 2,64, vitamin B2 - riboflavin (mg) 20,5, vitamin B3 - nicotinic acid (mg) 8,2, vitamin C - ascorbic acid (mg) 17,3, vitamin E - tocopherol acetate (mg) 113, arginin (g/16gN) 1,33%, histidin (g/16gN) 0,61%, lysin (g/16gN) 1,32%, tryptophan (g/16gN) 0,43%, phenylanaline (g/16gN) 1,39%, methionine (g/16gN) 0,35%, threonine (g/16gN) 1,19%, leucine (g/16gN) 1,95%, isoleucine (g/16gN) 0,83%, valine (g/16gN) 1,06%. 1.2. Bông chùm ngây có thể dùng để làm rau ăn hoặc làm trà (nhiều nước Tây phương sản xuất trà hoa chùm ngây bán ngoài thị trường), cung cấp tốt nguồn muối khoáng calcium và potassium. Nó cũng là nguồn cung cấp nguyên liệu rất tốt cho người nuôi ong. Quả non của nó có thể chiên xào để ăn với hương vị như măng tây. 1.3. Hạt chùm ngây chứa nhiều dầu, lượng dầu chiếm đến 30 - 40% trọng lượng hạt, có nơi trồng chùm ngây ép dầu, năng suất dầu đạt 10 tấn / ha. Dầu hạt chùm ngây chứa 65,7% acid oleic, 9,3% acid palmitic, 7,4% acid stearic và 8,6% acid behenic. Ở Malaysia, hạt chùm ngây được dùng để ăn như đậu phụng. Dầu chùm ngây ăn được, và còn được dùng bôi trơn máy móc, máy đồng hồ, dùng cho công nghệ mỹ phẩm, xà phòng, dùng để chải tóc. Dầu chùm ngây được bán ở thị trường dưới tên gọi tiếng Anh là ben-oil. Chính vì thế cây chùm ngây có tên là "Ben-oil tree". 1.4. Các đoạn rễ non được dùng làm rau thay cho cải ngựa. Cải ngựa là một loài rau diếp với tên khoa học là Armoracia rusticana = Cochlearia armoracia, tên tiếng Anh là Horseradish, vì thế cây chùm ngây còn có tên tiếng Anh là "Horsradish tree" và cũng từ đó người Việt còn gọi nó là "cây cải ngựa". 2. Về y học: nhiều bộ phận của cơ thể cây chùm ngây đã được dùng làm thuốc chữa nhiều bệnh khác nhau. 2.1. Lá, hoa và rễ được dùng trong y học cộng đồng, 1/ chữa trị các khối u. 2/ Lá dùng uống để điều trị chứng hạ huyết áp và 3/vò xát vào vùng thái dương để trị chứng nhức đầu. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy rằng, 4/ lá chùm ngây có tính chất như một kháng sinh chống các viêm nhiễm nhỏ. 5/ Theo Hartwell, hoa, lá, và rễ còn được dùng trị sưng tấy; 6/còn hạt dùng trị trướng bụng. 7/ Lá còn được dùng để điều trị các vết cắt ở da, vết trầy sướt, sưng tấy, nổi mẩn ngứa hay các dấu hiệu của lão hóa da. 8/ Dịch chiết từ lá có tác dụng duy trì ổn định huyết áp, trị chứng bần thần, chống nhiễm trùng da. 9/Nó cũng được dùng để điều khiển lượng đường máu trong trường hợp bị bệnh tiểu đường. Dịch chiết từ lá có thêm nước cà-rốt là một thức uống lợi tiểu. Bột làm từ lá tươi có khả năng cung cấp năng lượng làm cho năng lượng tăng gấp bội khi dùng thường xuyên. 10/Lá cũng được dùng chữa sốt, viêm phế quản, viêm nhiễm mắt và tai, viêm màng cơ, 11/diệt giun sán và làm thuốc tẩy xổ. 12/ Sản phụ ăn lá sẽ làm tăng tiết sữa. Ở Philippines lá được chỉ định dùng chống thiếu máu, do chứa lượng sắt cao. 13/ Hạt điều trị bệnh viêm dạ dày. Dầu hạt được dùng ngoài để điều trị nấm da. Trường Đại học San Carlos ở Guatemala đã tìm ra một loại kháng sinh có tác dụng như neomycin có khả năng bảo vệ da khỏi sự viêm nhiễm do Staphylococcus aureus. Loại kháng sinh này là một hỗn hợp kháng khuẩn và nấm có tên pterygospermin, danh pháp hóa học là glucosinolate 4 alpha-L-rhamnosyloxy benzyl isothiocyanate. Nhiều nơi trên thế giới dùng bột nghiền từ hạt để khử trùng nước sông, nước sông trong mùa lũ có tổng số trực trùng Escherichia coli lên tới 1.600 - 18.000 / 100 ml, được xử lý bằng bột hạt chùm ngây trong vài giờ đồng hồ đã giảm xuống còn 1 - 200 / 100 ml. 14/ . Rễ có vị đắng, được xem như một loại thuốc bổ cho cơ thể và phổi, điều kinh, long đàm, lợi tiểu nhẹ. 15/ Ở Nicaragua, nước sắc rễ được dùng chữa bệnh phù thủng. Dịch rễ được dùng ngoài để điều trị chứng mẩn ngứa do dị ứng. Trong rễ và hạt, cũng có chất kháng sinh pterygospermin. 2.4. Vỏ cây được dùng điều trị chứng thiếu vitamin C, đôi khi dùng trị tiêu chảy. 2.5. Trong những năm gần đây, những công trình nghiên cứu được công bố trong các báo "Phytotherapy Rechearch" và "Hort Science" cũng đã cho thấy các tác dụng khác nhau của các bộ phận cây chùm ngây như, chống hạ đường huyết, giảm sưng tấy, chữa viêm loét dạ dày, điều trị chứng hạ huyết áp và ngay cả làm êm dịu thần kinh trung ương. VIII. CÔNG DỤNG CỦA CÂY CHÙM NGÂY TRÊN THẾ GIỚI: 16/ Mỹ hiện nay là nước nhập nguyên liệu Moringa thô nhiều nhất, sử dụng trong công nghê mỹ phẩm cao cấp, nước uống và quan trong hơn là chiết suất thành nguyên liệu tinh cung ứng cho công nghiệp dược phẩm, hóa chất. 17/ Ấn Độ: Chùm Ngây được gọi là sainjna, mungna (Hindi, Asam, Bengal..); Phạn ngữ: Shobhanjana.Là một trong những cây thuốc “dân gian” rất thông dụng tại Ấn Độ. Vỏ thân được dùng trị nóng sốt, đau bao tử, đau bụng khi có kinh, sâu răng, làm thuốc thoa trị hói tóc; trị đau trong cổ họng (dùng chung với hoa của cây nghệ, hạt tiêu đen, rễ củ Dioscorea oppositifolia); trị kinh phong (dùng chung với thuốc phiện); trị đau quanh cổ (thoa chung với căn hành của Melothria heterophylla, Cocci nia cordifolia, hạt mướp (Luffa) và hạt Lagenaria vulgaris); trị tiểu ra máu; trị thổ tả (dùng chung với vỏ thân Calotropis gigantea, Tiêu đen, và Chìa vôi. Hoa dùng làm thuốc bổ, lợi tiểu. Quả giã kỹ với gừng và lá Justicia gendarussa để làm thuốc đắp trị gẫy xương. Lá trị ốm còi, gây nôn và đau bụng khi có kinh. Hạt: dầu từ hạt để trị phong thấp. 18/ Pakistan: Cây được gọi là Sajana, Sigru. Cũng như tại Ấn, Chùm Ngây được dùng rất nhiều để làm các phương thuốc trị bệnh trong dân gian. Ngoài các cáchsử dụng như tại Ấn độ, các thành phần của cây còn được dùng như : Lá giả nát đắp lên vết thương, trị sưng và nhọt, đắp và bọng dịch hoàn để trị sưng và sa; trộn với mật ong đắp lên mắt để trị mắt sưng đỏ.. Vỏ thân dùng để phá thai bằng cách đưa vào tử cung để gây giãn nở. Vỏ rễ dùng sắc lấy nước trị đau răng, đau tai..Rễ tươi của cây non dùng trị nóng sốt , phong thấp, gout, sưng gan và lá lách..Nhựa từ chồi non dùng chung với sữa trị nhức đầu, sưng răng.. 19/ Trung Mỹ: Hạt Chùm Ngây được dùng trị táo bón, mụn cóc và giun sán • Saudi Arabia : Hạt được dùng trị đau bụng, ăn không tiêu, nóng sốt, sưng tấy ngoài da, tiểu đường và đau thắt ngang hông. • Việt Nam : Rễ Chùm Ngây được cho là có tính kích thích, giúp lưu thông máu huyết, làm dễ tiêu hóa, tác dụng trên hệ thần kinh, làm dịu đau. Hoa có tính kích dục. Hạt làm giảm đau. Nhựa (gomme) từ thân có tác dụng làm dịu đau. Liều lượng và các phản ứng phụ cần lưu ý: Hiện nay chưa có những báo cáo về những nguy hại đối với sức khoẻ trong việc sử dụng Hạt và Rễ Chùm Ngây theo các liều lượng trị liệu. Tuy nhiên dùng liều quá cao có thể gây ra buồn nôn, chóng mặt và ói mửa. Liều cho uống : 5gram/ kg trọng lượng cơ thể, thử trên chuột , gây phản ứng keratin hóa quá mức tế bào bao tử và sơ hóa tế bào gan. Liều chích qua màng phúc toan 22 đến 50 mg/ kg trọng lượng cơ thể gây tử vong nơi chuột thử nghiệm. Không nên dùng Rễ Chùm ngây nơi phụ nữ có thai, vì có khả năng gây trụy thai. ( Nguồn:DS Trần Viết Hưng/ ĐH Cần Thơ) 3. Về ứng dụng công nghiệp: gỗ cây chùm ngây rất nhẹ, có thể dùng làm củi, nhưng năng lượng không cao. Nó được xem là nguồn nguyên liệu tiềm năng cho kỹ nghệ giấy và còn được dùng để chế phẩm màu xanh. Vỏ cây có khả năng cung cấp ta-nanh (tannin, tanin), nhựa dầu và sợi thô. 4. Khả năng phòng hộ: Cây chùm ngây thuộc loại cây mọc nhanh và dễ tính, sống được ở những điều kiện đất đai khô cằn và trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, chịu được hạn hán. Do vậy, nhiều nơi trên thế giới, cây chùm ngây được trồng làm hàng rào xanh che chắn cho các khu sản xuất nông nghiệp, che bóng cho các cây công nghiệp dài ngày, chắn gió, chắn cát bay. Ngoài ra, cây có khả năng cải tạo đất, lá dùng làm phân xanh và làm thức ăn bổ sung cho gia súc rất tốt, cây có lá nhỏ, thân thon, tán đẹp nên được trồng làm cảnh. 5. Đặc điểm hình thái học: Cây chùm ngây có dạng sống là cây gỗ nhỏ, cao từ 8 - 10m. Lá kép lông chim 3 lần, dài 30 - 60 cm, với nhiều lá chét màu xanh mốc mốc, không lông, dài 1,3 - 2 cm, rộng 0,3 - 0,6 cm; lá kèm bao lấy chồi. Hoa thơm, to, dạng hơi giống hoa đậu, tràng hoa gồm 5 cánh, màu trắng, vểnh lên, rộng khoảng 2,5 cm. Bộ nhị gồm 5 nhị thụ xen với 5 nhị lép. Bầu noãn 1 buồng do 3 lá noãn, đính phôi trắc mô. Quả nang dài từ 30 - 120 cm, rộng 2 cm, khi khô mở thành 3 mảnh dày. Hạt nhiều (khoảng 20), tròn dẹp, to khoảng 1 cm, có 3 cánh mỏng bao quanh. 6. Đặc điểm phân loại: chùm ngây là một trong 13 loài thuộc chi Moringa, họ Moringaceae, với tên khoa học là Moringa oleifera Lamk.. Trong đó, Moringa là tên chi, được Latin hóa từ tên bản xứ gốc tiếng Tamil murungakkai, oleifera có nghĩa là chứa dầu, được ghép bởi gốc từ olei- (dầu) và -fera (mang, chứa). Tên đồng nghĩa là Moringa pterygosperma Gaertn. (pterygosperma: phôi có cánh, tên kháng sinh pterydospermin cũng từ đây mà có), Guilandina moringa L., Moringa moringa (L.) Small. Trên thế giới, chùm ngây được gọi dưới nhiều tên khác nhau: Tiếng Anh: Horsradish tree, Ben tree, Behn tree, Ben-oil tree, Benzolive tree, West Indian ben, Drumstick tree, Moringa tree Tiếng Pháp: Ben ailé, Ben ailée, Ben oléifère, Moringa ailée, Pois quénique Tiếng Đức: Behenbaum, Behennussbaum, Meerrettichbaum Tiếng Hà Lan: Benboom, Peperwortel boom Tiếng Ý: Been, Bemen. Tiếng Arabia: Habbah ghaliah, Rawag (Sudan), Shagara al ruway (Sudan). Tiếng Bồ Đào Nha: Acácia branca, Moringa, Muringueiro. Tiếng Tây Ban Nha : Arbol de las perlas, Arbol do los aspáragos, Ben, Jacinto (Panama), Jasmin francés, Jazmin francés (Puerto Rico), Maranga, Maranga calalu (Honduras), Marango (Costa Rica), Palo de aceite (Dominican Republic), Palo de abejas (Dominican Republic), Paraíso, Paraíso blanco (Guatemala), Perlas (Guatemala), Resada (Puerto Rico). Tiếng Nga: Моринга олейфера. Tiếng Myanmar: Dandalonbin, Dan da lun. Tiếng Nhật: Wasabi no ki. Tiếng Khmer : Daem mrom. Tiếng Indonesia : Kelor, Kalor. Tiếng Malaysia : Moringa, Muringa, Sigru. Tiếng Ấn Độ : Sobhan jana. Tiếng Tamil: Murungai. Tiếng Thái: Ka naeng doeng, Ma khon kom, Ma rum (bean / pod), Phak i huem, Phak i hum, Phak nuea kai, Phak ma rum (leaves), Se cho ya. 7. Đặc điểm phân bố: Cây có nguồn gốc ở Ấn Độ, Arabia, châu Phi, vùng Viễn Tây châu Mỹ; được trồng và mọc tự nhiên ở vùng nhiệt đới châu Phi, nhiệt đới châu Mỹ, Sri Lanka, Ấn Độ, Mexico, Malabar, Malaysia và Philippines. Ở Việt Nam, từ lâu, cây đã được trồng ở Nha Trang, Phan Thiết, Phú Quốc. Gần đây, kiều bào ở Mỹ Trần Tiễn Khanh đã chuyển về Việt Nam 100 hạt giống, đã được phân phát cho một số nông dân ở Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng. 8. Đặc điểm sinh thái: Cây có khả năng sống từ vùng Cận nhiệt đới khô đến ẩm cho đến vùng nhiệt đới rất khô đến vùng rừng ẩm. Chịu lượng mưa từ 480 - 4000 mm/năm, nhiệt độ 18,7 - 28,5oC và pH 4,5 - 8. Chịu được hạn và có thể sinh trưởng tốt trên đất cát khô 9. Nhân giống: Ở Ấn Độ, cây được nhân giống bằng cành 1 - 2 m. Thời vụ thích hợp từ tháng 5 - 8. Cây bắt đầu cho quả sau 6 - 8 tháng trồng. Quả được thu hoạch giữa tháng ba và tháng tư, sau đó thu lại một đợt nữa trong tháng 9 và tháng 10. 10. Tình hình sâu bệnh hại: Sâu bệnh hại thường gặp là Ruồi đục quả Gitona spp., các loài bọ cánh cứng hại lá cây con và cây chồi giâm hom như: Mylloceus discolor, M. viridanus, Ptochus ovulum, thực vật ký sinh Dendrophthoe flacata và các nấm hại bao gồm: Cercospora moringicola, Sphaceloma morindae, Puccinia moringae, Oidium sp., Polyporus gilvus. Như vậy, đối chiếu các tính năng thực vật học, sinh thái học và các thành tựu về dinh dưỡng học, y học, môi trường học, chúng tôi thấy rằng, đây là một loài cây đầy tiềm năng cho việc hỗ trợ sự phát triển cộng đồng nông thôn miền núi và vùng cát ven biển. Ở khu vực miền Trung Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng, cuộc sống của cư dân trên dải đất cát ven biển đang gặp nhiều khó khăn, do thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai và điều kiện khắc kiện của môi trường sống, rất cần phát triển những loài cây vạn năng thích hợp. Tôi nghĩ rằng, đã đến lúc nghĩ tới việc bố trí thử nghiệm các mô hình trồng cây đa tác dụng cho vùng cát ven biển và vùng cát nội đồng, mà cây chùm ngây là một đối tượng không thể bỏ qua, hầu giúp cư dân nơi đây có thêm một nguồn tài nguyên mới, hỗ trợ cho việc bảo vệ sức khỏe cộng đồng và cứu đói những lúc giáp hạt. *Lợi ích và công dụng : Chùm ngây là một trong những loài cây vô cùng hữu ích. Nó vừa cung cấp dinh dưỡng, vừa làm thuốc mà lại còn là nguyên liệu để sản xuất mỹ phẩm. Lá của cây chùm ngây được dùng làm rau. Nó có thể ăn sống như các loài rau sống khác. Cũng có thể nghiền lá ra để làm nước sinh tố. Nếu nấu canh thì ta được món canh giống với canh rau ngót. Người già, trẻ em và người có thể trạng yếu, nếu ăn rau chùm ngây sẽ rất mau khỏe. Cần chú ý, phụ nữ có thai không nên ăn chùm ngây vì có thể bị sẩy thai. Chùm ngây còn có tác dụng phòng và trị rất nhiều bệnh như: Ung thư, tiểu đường, thiếu máu, còi xương, bệnh tim mạch, ung loét, co giật, bệnh gan... Nó giúp ta hạ huyết áp và hạ cholesterol, chống oxy hóa... Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO) đều đề cao cây chùm ngây, coi nó là cứu tinh cho người nghèo, đặc biệt ở các nước thuộc thế giới thứ 3... Và còn rất nhiều công dụng không thể ngờ tới của chùm ngây mời anh em thao khảo trên internet *Giá trị kinh tế [LIST] • lá non 1 kg từ 70.000 - 80.000 đồng • Rễ cây 20 năm tuổi 800 - 1000 000 đồng/kg • Bột lá khô :500 - 600 000 /kg

Monday, September 23, 2013

Bài thuốc cây xạ đen và hiệu quả điều trị ung thư

Bài thuốc cây xạ đen và hiệu quả điều trị ung thư (VietNamNet) - Thời gian gần đây, một phòng khám của Hội Đông y tỉnh Hoà Bình trở nên tấp nập từ sáng đến đêm. Hầu hết người đến đây chờ bắt mạch, kê đơn là bệnh nhân ung thư, với hy vọng khỏi chứng nan y nhờ bài thuốc có đầu vị là cây xạ đen do một cố lương y dân tộc Mường để lại. Mế Hậu - người tìm ra bài thuốc cây xạ đen bắt mạch cho bệnh nhân. Sáng 14/3 ở phòng khám Đông y số 6 (số 35, tổ 7, đường Nguyễn Thái Học, phường Đồng Tiến, thị xã Hoà Bình), nơi bà Đinh Thị Phiển - con gái cố lương y Bùi Thị Bẻn (còn gọi là Mế Hậu) bắt mạch, kê đơn, bà Vũ Việt Anh (Ba Đình, Hà Nội) bị ung thư vòm nói: "’Tôi vừa xạ trị 30 mũi ở Bệnh viện K, nghe tin bài thuốc cây xạ đen, tìm về đây xin bốc uống, mong đỡ bệnh". Cũng như bà Việt Anh, gần 30 bệnh nhân ung thư và người nhà tìm đến phòng khám của lương y Đinh Thị Phiển xin thuốc cây xạ đen sáng hôm ấy đều không hy vọng thoát căn bệnh khoa học còn bó tay này, vì "nếu khỏi, bài thuốc đã giật giải Nobel". Hầu hết đều chỉ mong muốn nhờ bài thuốc có xạ đen mà giảm triệu chứng mệt mỏi, đau đớn của căn bệnh hiểm và kéo dài tuổi thọ. Phóng viên VietNamNet đã tìm gặp một số người bệnh ung thư may mắn đỡ đau, khoẻ lên sau khi uống các thang thuốc với đầu vị là xạ đen bà lương y Phiển bốc cho họ. Ông Phạm Văn Bài - bệnh nhân ung thư phổi 53 tuổi ở thôn Thị Đức, xã Nhật Tân, huyện Gia Lộc, Hải Dương, cho biết, sau khi ông được bệnh viện tỉnh cho về nhà điều trị, gia đình đã mang hồ sơ bệnh án đến lương y Phiển và xin bà cho thuốc. Ông không ngờ sau khi uống 3 thang, bệnh chuyển. 20 thang tiếp, ông đã nói ra tiếng, người nhẹ hơn. 30 thang sau nữa, ông bắt đầu ăn ngủ được, thể lực khá hẳn. Một bệnh nhân khác cũng ngạc nhiên trước sự thay đổi chất lượng cuộc sống rõ rệt mà những thang thuốc sắc bình dị này mang lại. Nguyên phi công Nguyễn Văn Tụ (số 2, tổ 97, phường Chương Dương, Hoàn Kiếm, Hà Nội) sau khi được bệnh viện chẩn đoán là ung thư dạ dày và không mổ đã dùng 30 thang thuốc có xạ đen, cảm thấy trạng thái toàn thân dễ chịu từng ngày, các cơn đau ít và đỡ dần; nay đã tự túc trở lại mọi sinh hoạt cá nhân. Ông Bài, ông Tụ và các bệnh nhân ung thư khác đều được lương y Đinh Thị Phiển bắt mạch, xem xét kỹ hồ sơ bệnh án (với các kết quả xét nghiệm và chẩn đoán lâm sàng của y học hiện đại) rồi kê thuốc với lượng nhiều ít xạ đen, đinh râu, xạ bái và các vị khác tuỳ loại và mức độ bệnh. Mỗi người chỉ tốn trên dưới 1 triệu đồng tiền thuốc cho đến lúc chuyển bệnh và khoẻ lại. Khoa học đã công nhận bài thuốc cây xạ đen Nhiều chục năm trước, cây xạ đen (hay xạ đen cuống, tiếng Mường gọi là Xạ cái) từng được lương y dân tộc Mường Bùi Thị Bẻn (bệnh nhân thường gọi là mế Hậu, ở huyện Kim Bôi, Hoà Bình) đặt tên là cây ung thư, chuyên dùng để chữa các loại u khối. Bài thuốc cây xạ đen, dù sau đó được mế tặng cho Hội Đông y tỉnh Hoà Bình, vẫn ít người biết đến. Chỉ kể từ năm 1987, khi được đoàn bác sĩ Học viện Quân y (do GS.TSKH Lê Thế Trung - Chủ tịch Hội Ung thư TP.Hà Nội dẫn đầu) phát hiện trong chuyến sưu tầm các bài thuốc quý trong dân gian, cây xạ đen mới bắt đầu thu hút sự chú ý của giới khoa học và được đưa về cơ sở này để nghiên cứu. Qua nghiên cứu về thực vật học, hoá dược, dược lý, nghiên cứu thực nghiệm trên động vật được gây ung thư (theo đề tài cấp Bộ về xạ đen do GS. Lê Thế Trung làm chủ nhiệm), các bác sĩ đã phát hiện ở loài cây này tác dụng hạn chế sự phát triển của khối u ác tính. Hơn nữa, theo GS. Trung, hợp chất lấy từ xạ đen nếu được kết hợp với chất Phylamin (lấy từ một loại thảo dược ở đồng bằng) còn phát huy tác dụng, kéo dài tuổi thọ trung bình của động vật bị ung thư hơn nhiều chất đã qua nghiên cứu thực nghiệm như Trinh nữ hoàng cung hay tỏi Thái Lan. Đến cuối năm 1999, đề tài của các bác sĩ Học viện Quân y được nghiệm thu, cây xạ đen chính thức được công nhận là một trong không nhiều những vị thuốc nam có tác dụng điều trị hỗ trợ bệnh nhân ung thư. Cuối năm 2002, người bệnh mới biết đến loài cây này qua câu chuyện của GS. Trung trong Chương trình Người đương thời (VTV3) và tìm về phòng khám Đông y nơi con gái mế Hậu - lương y Đinh Thị Phiển làm việc ngày một đông. Cẩn thận với xạ đen rởm Từ khi được nhiều người biết đến, xạ đen trở thành đối tượng chính của dân săn dược liệu. Từ đầu năm Quý Mùi, xạ đen khan hiếm hơn, giá thị trường tăng từ 50.000 đồng lên 150.000-200.000 đồng/kg khô. Phòng khám của lương y Đinh Thị Phiển trở thành nơi tiếp không chỉ bệnh nhân và người nhà; dân buôn dược liệu thi thoảng cũng ghé qua xin bà xem giúp những thứ cây nhét chặt trong các bao của họ có đúng là loài cây quý. Lương y Đinh Thị Phiển cho biết, có đến 3/4 số cây bà được hỏi không phải là xạ đen; phần lớn là cây thuỷ bồ (hoặc thạch xương bồ, nếu mọc trên đá). Những loài cây này cũng có lá xanh và chát gần giống lá chè nhưng không lớn hoặc sẫm bằng xạ đen. Đặc biệt, không chuyển màu đen mực ngay sau khi bị băm nhỏ như loài dược thảo quý này. Bà Phiển dự đoán, những thứ xạ đen giả nói trên sẽ được tải về các kho thuốc đông y và cắt cho bệnh nhân nhiều tỉnh. Còn ở nhà bà lương y nối nghiệp trị bệnh, cứu người của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác và người mẹ đã quá cố, cây xạ đen sẽ mãi là thật, dù người ta có nhao nhác đi tìm của giả để thay thế và nguyên liệu thuốc có tăng giá đến đâu. Để người bệnh ung thư còn chí ít là một trong mười phương được sống và sống chất lượng nhất trong khả năng có thể. http://www.ykhoa.net/yhoccotruyen/baiviet/29_042.htm

Điều trị hỗ trợ ung thư bằng thảo dược

Điều trị hỗ trợ ung thư bằng thảo dược Đông y đã có nhiều kinh nghiệm quý để điều trị một số thể ung thư, ức chế các khối u phát triển. Trong khi các nhà khoa học tìm cách bào chế thuốc chữa ung thư từ thảo dược, bệnh nhân có thể sử dụng một số cây thuốc để hỗ trợ điều trị bệnh này. Thuốc cổ truyền trị ung thư thường có các vị: đương quy Trung Quốc, đương quy Nhật Bản, phụ tử, đinh hương, uy linh tiên, trinh nữ hoàng cung, đu đủ, tam thất, nghệ và những vị khác. Đương quy: Cây đương quy Nhật Bản (Angelica acutiloba) đã được di thực, thuần hóa tại nước ta. Thí nghiệm trên động vật cho thấy, hợp chất polysacharid từ rễ cây này có tác dụng phục hồi miễn dịch đối với những tổn thương do hóa trị; giúp thương tổn cấu trúc của lách và tủy xương phục hồi gần bằng mức bình thường. Trong ống nghiệm, polysacharid đương quy làm tăng lượng tế bào lim-phô T nói chung và tế bào lim-phô T hoạt động, đồng thời phục hồi khả năng tạo hồng cầu của tế bào này. Thử nghiệm lâm sàng cho thấy đương quy bảo vệ hệ thống miễn dịch đối với những bệnh nhân ung thư vòm họng đang điều trị bằng tia xạ. Thuốc làm tăng sức đề kháng, tăng chất lượng hồng cầu và hạn chế sự suy giảm tỷ lệ huyết sắc tố. Trên bệnh nhân ung thư vú đang điều trị bằng tia xạ và hóa chất hoặc trên bệnh nhân ung thư các loại đang dùng đa hóa trị liệu, polysacharid đương quy với liều 1 g mỗi ngày có tác dụng bổ trợ miễn dịch, giúp phục hồi sớm một số dòng tế bào máu (bạch cầu, tiểu cầu, tế bào lim-phô T) đã bị giảm do trị liệu với hóa chất và tia xạ. Nghệ: Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh nghệ có tác dụng dự phòng ung thư dạ dày, ung thư da, ung thư vú và ung thư gan; giảm số lượng và kích thước các ổ ung thư. Hoạt chất curcumin chiết xuất từ củ nghệ có khả năng dự phòng và điều trị ung thư do ngăn chặn sự tăng sinh của nhiều loại tế bào u khác nhau. Curcumin còn có tác dụng chống viêm và chống ôxy hóa mạnh. Trong thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân ung thư, việc sử dụng currumin với liều 10 g/kg tỏ ra an toàn, không gây những tác dụng không mong muốn. Chàm lá nhỏ: Một loại thuốc viên của y học cổ truyền Trung Quốc bào chế từ chàm lá nhỏ và một số vị khác đã được dùng điều trị bệnh bạch cầu tủy bào mạn tính. Chàm lá nhỏ được chứng minh là thành phần chính có tác dụng chống căn bệnh này. Chất indirubin trong chàm lá nhỏ có hiệu quả điều trị rõ rệt với khối u ở động vật và với bệnh bạch cầu tủy bào mạn tính trên người. Hoàng liên, hoàng bá: Là các dược liệu chứa berberin, có trong bài thuốc trị ung thư của y học cổ truyền Trung Quốc. Berberin ức chế sự sinh trưởng tế bào u gan ở người, làm chậm sự tăng sinh các tế bào bệnh bạch cầu trên động vật thí nghiệm và các tế bào ung thư vòm họng, ung thư dạ dày, các tế bào bệnh bạch cầu tiền tủy bào, các tế bào ung thư miệng và ung thư kết tràng. Hoàng cầm: Hoàng cầm có trong bài thuốc trị ung thư của y học cổ truyền; chứa các flavonoid, baicalein, baicalin, wogonin và wogonosid...Baicalin ức chế sự sinh trưởng các tế bào u gan của người và các tế bào ung thư tuyến tụy. Baicalin, baicalein và wogonin có tác dụng độc hại đối với các tế bào ung thư bàng quang ở người và động vật thí nghiệm, trong đó baicalin có tác dụng mạnh nhất. Baicalein cũng ức chế sự tăng sinh của 3 dòng tế bào ung thư gan của người, nhiều dòng tế bào ung thư tiền liệt tuyến, các tế bào bệnh bạch cầu lym-phô và các tế bào ung thư vú ở người. Baicalein và wogonin làm thuyên giảm u não, ngăn chặn sự xâm nhập và di căn các tế bào u hắc sắc tố. Vân mộc hương: Vân mộc hương có bài thuốc chống ung thư của y học cổ truyền, chứa các hoạt chất lappadilacton, dehydro-costuslacton và costunolid, có tác dụng độc hại đối với các dòng tế bào ung thư gan của người. Tam thất, trinh nữ hoàng cung, đu đủ: Trên mô hình gây u báng thực nghiệm trên động vật bằng cấy tế bào ung thư ác tính, cao chiết tam thất và chế phẩm panacrin sản xuất từ tam thất, trinh nữ hoàng cung, đu đủ đã làm giảm sinh khối của u báng, do đó làm giảm tốc độ phát triển khối u. Panacrin hạn chế sự di căn của tế bào ung thư và kéo dài thời gian sống của động vật mang khối u được điều trị với thuốc lên gần gấp đôi. Chỉ thiên: Deoxyelephantopin từ chỉ thiên ức chế đáng kể sự phát triển của ung thư biểu mô. Dihydroelephantopin ức chế sự phát triển những tế bào ung thư bệnh bạch cầu. Các bài thuốc: Chữa di căn bệnh bạch cầu lim-phô: Cỏ chỉ thiên trộn với muối và giấm, giã nhỏ và đắp vào nơi tổn thương. Điều trị hỗ trợ ung thư cho bệnh nhân không bị giảm thể trọng: Đương quy 15 g, bạch thược 10 g, nghệ 10 g, vân mộc hương 6 g, đinh hương 5 g. Sắc uống ngày một thang, chia 3 lần. Chữa u báng và kết hạch: Xạ can 10 g, nghệ đen 8 g, xuyên khung 6 g. Sắc uống ngày một thang. Trị bệnh bạch cầu hạt: Bột chàm mỗi lần uống 0,9-1,5 g, ngày 3 lần. Trị bệnh bạch cầu tủy bào mạn tính: Đương quy 15 g; hoàng liên, hoàng bá, hoàng cầm mỗi vị 10 g; vân mộc hương, bột chàm mỗi vị 5 g. Sắc uống ngày một thang, chia làm 3 lần uống. Điều trị hỗ trợ ung thư các cơ quan đường tiêu hóa, ung thư vú, ung thư tử cung: Đương quy 15 g; bạch thược, gừng mỗi vị 10 g, vân mộc hương 4 g, đinh hương 4 g. Sắc uống ngày một thang, chia làm 3 lần uống. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống) http://hdp.com.vn/vi/ung-thu-1/182-dieu-tri-ho-tro-ung-thu-bang-thao-duoc.html

Xáo tam phân, nấm lim xanh, cỏ lưỡi rắn trắng… là những thảo mộc chữa được căn bệnh ung thư mà khoa học đã chứng minh.

Xáo tam phân, nấm lim xanh, cỏ lưỡi rắn trắng… là những thảo mộc chữa được căn bệnh ung thư mà khoa học đã chứng minh. http://vtc.vn/321-360437/suc-khoe/nhung-thao-moc-nao-co-the-chua-duoc-ung-thu.htm

Sunday, September 22, 2013

5-BỆNH UNG THƯ NỘI TẠNG

5-BỆNH UNG THƯ NỘI TẠNG Lá đu đủ đực thật hay (cả cành lá) Để vào nồi đất sắc ngay nước nhiều Để vào tủ lạnh đừng thiêu Uống thay nước lạnh càng nhiều càng hay Tiếp tục cứ uống hằng ngày Thường đi bách bộ cho bài tiết ra Vận động hơi thở điều hòa Ăn được gạo lức thì là tốt hơn Nhai nhuyễn cùng với muối mè Dưỡng sinh trị liệu nên nghe thật hành Nhiều người trị được mạnh lành Ung thư nhiều thuốc chỉ rành trong đây Tụng kinh niệm Phật hằng ngày Cầu xin Tam Bảo giải bày nghiệp oan Bệnh căn sớm được tiêu tan Gặp thầy trúng thuốc bình an mạnh lành. Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#135-TOA%20THU%E1%BB%90C%20TR%E1%BB%8A%20NHI%E1%BB%80U%20CH%E1%BB%A8NG%20B%E1%BB%86NH%20UNG%20TH%C6%AF,M%C3%81U%20CAO,TI%E1%BB%82U%20%C4%90%C6%AF%E1%BB%9CNG,M%C3%81U%20C%C3%93%20M%E1%BB%A0,%20%C4%90AU%20GAN,SUY%20TH%E1%BA%ACN,NHI%E1%BB%86T%20V.V%E2%80%A6#ixzz2fdEl7EFm

11-TRỊ PHONG THẤP TÊ NHỨC VÀ CAO MÁU

11-TRỊ PHONG THẤP TÊ NHỨC VÀ CAO MÁU Cây mắc cỡ,chặt nhỏ phơi khô Nấu như sắc thuốc uống hoài hết ngay Thấy tuy đơn giản mà hay Cũng là diệu dược chữa ngay bệnh tình Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#135-TOA%20THU%E1%BB%90C%20TR%E1%BB%8A%20NHI%E1%BB%80U%20CH%E1%BB%A8NG%20B%E1%BB%86NH%20UNG%20TH%C6%AF,M%C3%81U%20CAO,TI%E1%BB%82U%20%C4%90%C6%AF%E1%BB%9CNG,M%C3%81U%20C%C3%93%20M%E1%BB%A0,%20%C4%90AU%20GAN,SUY%20TH%E1%BA%ACN,NHI%E1%BB%86T%20V.V%E2%80%A6#ixzz2fdEATph7

TRỊ TIỂU ĐƯỜNG THUỐC NGOẠI KHOA

15-TRỊ TIỂU ĐƯỜNG THUỐC NGOẠI KHOA Mật nhân ổi chát trị tiểu đường Cỏ cú, hột me cũng diệu phương Vỏ cóc phơi khô siêng nấu uống Cỏ me, cỏ sữa,trái cao tươi Hoặc là vỏ bưởi đem nấu uống Lá cóc, lá me, trái ổi non Đắng chát hay chua phương diệu dược Bông dừa đệ nhất trị tiểu đường[2] Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#135-TOA%20THU%E1%BB%90C%20TR%E1%BB%8A%20NHI%E1%BB%80U%20CH%E1%BB%A8NG%20B%E1%BB%86NH%20UNG%20TH%C6%AF,M%C3%81U%20CAO,TI%E1%BB%82U%20%C4%90%C6%AF%E1%BB%9CNG,M%C3%81U%20C%C3%93%20M%E1%BB%A0,%20%C4%90AU%20GAN,SUY%20TH%E1%BA%ACN,NHI%E1%BB%86T%20V.V%E2%80%A6#ixzz2fdDEIgVI

Sầu đâu rừng, Sầu đâu cứt chuột

NHA ĐẢM TỬ (Fructus Brucae Javamiceae) Còn có tên là cây Cứt dê, Khổ sâm cho hạt, Sầu đâu rừng, Sầu đâu cứt chuột, Xoan rừng, Cứt cò (Vĩnh linh), Hạt bỉnh (Nghệ an), Khổ luyện tử. Bộ phận làm thuốc là quả chín phơi khô của cây Sầu đâu rừng (Brucea Javanica (L) Merr) thuộc họ Thanh thất (Simarubaceae). Vị thuốc được ghi đầu tiên trong sách " Bản thảo cương mục thập di tập V." còn có tên Khổ sâm tử. Tính vị qui kinh: Vị đắng tính hàn, qui kinh Can và Đại tràng. Theo tài liệu cổ: Sách Y học Trung trung tham tây lục: vị rất đắng, tính lương. Sách Bản thảo chính nghĩa: đại khổ, đại hàn. Thành phần chủ yếu: + Theo sách Đỗ tất Lợi, trong quả Nha đảm tử có 23% dầu (hoặc 50%, nếu chỉ tính đối với nhân), dầu lỏng màu trắng, có chất glucozit gọi là Kosamin, chất tanin, chất men có thể là men thủy phân, amydalin, chất quassin và một chất saponin. + Theo sách Ứng dụng lâm sàng Trung dược: Nha đảm tử có Nha đảm tử tinh thể I (C12H1605), tinh thể II (C10H16O5), tinh thể III (C17H34O2), glucozit Nha đảm tử (C20H32O9). (theo tài liệu nghiên cứu công thức hóa học của glucozit Nha đảm tử đăng trong " Học báo hóa học" 28(2):96-99;1962) và dầu Nha đảm tử. + Theo sách Trung dược học thì thành phần chủ yếu của Nha đảm tử là chất Khổ vị tố, trong đó phân ra được 9 loại đơn thể gọi là Nha đảm tử khổ tố A,B,C, D, E, F, G,. glucozit và lượng lớn dầu Nha đảm tử (hàm lượng 36, 8 - 56,2). + Theo sách Dược liệu (Nhà xuất bản Y học 1985): thành phần gồm có chất dầu (55%) và các chất thuộc nhóm simarubolit. Tác dụng dưọc lý: Tác dụng diệt amip dạng hoạt động (nguyên trùng), in vitro và in vivo đều có tác dụng. Nhưng đối với lî mạn tính và lî trực khuẩn tác dụng kém hơn. Thuốc có tác dụng tẩy giun đũa, giun móc, sán, hấp huyết trùng, trùng roi trichomonas. Tác dụng chống sốt rét: Trên súc vật thực nghiệm, thuốc có tác dụng ức chế sự sinh trưởng của nguyên trùng sốt rét trong gà. Tác dụng kháng virut: Thuốc có tác dụng ức chế virut cúm típ A PR8. Tác dụng chống tế bào ung thư. Nha đảm tử tương đối độc, độc tính chủ yếu là phần đắng hòa tan trong nước. Liều dùng 50 của nước sắc là 0,48g/kg. Thuốc dùng ngoài da dễ gây phản ứng, tại chỗ mạnh ở da và niêm mạc. Thuốc uống thường gây đau bụng, khó chịu, nôn, buồn nôn, tiêu chảy, đầy bụng, váng đầu, rã rời chân tay. Tỷ lệ gây nhiễm độc thuốc khoảng 78,3%, còn có thể gây xung huyết nội tạng và xuất huyết, rối loạn hô hấp, khó thở. Thời gian dùng thuốc kéo dài có tích lũy độc. Không nên dùng với người có bệnh đường ruột, chức năng gan thận giảm, phụ nữ có thai và trẻ em. Ứng dụng lâm sàng: 1.Trị lî amíp cấp: dùng Nha đảm tử 12 cái bọc nhựa chia 3 lần uống trong ngày, đồng thời dùng 20 hạt ngâm trong 200ml nước sau 2 giờ ( ngâm vào 200ml dung dịch 1% natri bicacbonat sau 1 giờ đến 2 giờ thụt rửa đại tràng, mỗi ngày 1 lần, 10 ngày là một liệu trình. Trị 65 ca, kết quả trước mắt 94% (Tạp chí Trung y 1956,1:6). 2.Trị sốt rét: dùng Nha đảm tử nhân đã khử dầu tán nát, mỗi lần 12 hạt viên bọc nhựa, ngày uống 3 lần, uống trước bữa ăn, đã chữa 27 ca kết quả tốt (Báo Y dược học 1952,1:28). Có tác dụng đối với các loại ký sinh trùng sốt rét, đối với loại cách nhật là tốt hơn cả. Có tác giả báo cáo kết quả chống sốt rét không chắc chắn, hiện ít dùng. Theo GS Đỗ tất Lợi để chữa sốt rét ngày uống 3 lần, mỗi lần uống 1g quả sau bữa ăn. Uống liều 4 - 5 bgày. Phụ nữ có thai vẫn dùng được. 3.Trị mụn cóc: dùng nhân Nha đảm tử tiệt trùng bằng cao áp nghiền nhỏ đắp (trước khi đắp nên rửa bằng cồn hoặc cồn iod, dùng dao vô trùng rạch nhẹ da chảy tí máu), dán băng kín kiêng nước, sau 8 ngày mở ra, nếu chưa rụng bôi cao mềm acid boric, đã trị khỏi 200 ca không để sẹo (Tạp chí trung hoa bì phu khoa 1957,4:360). 4.Trị nốt ruồi: dùng Nha đảm tử cả vỏ (lượng 3 - 5g giã nát vụn bỏ vào lọ, cho vào một dung tích cồn 75% bằng lượng thuốc ngâm một ngày đêm, thuốc thấm với tăm bông bôi vào nốt ruồi, ngày 2 - 3 lần, kết quả tốt (Trung dược thông báo 1986,9:59). 5.Trị chai chân: dùng 11 - 13 nhân Nha đảm tử giã nát trộn với 1,5g bột Salicylate cho đều, cho thuốc vào băng keo, cắt thủng 1 lỗ bằng vùng bị chai một miếng băng keo khác dán lên chỗ chai rồi dán thuốc vào, cứ 10 ngày thay một lần, đã trị 2040 ca kết quả đều tốt (Tạp chí Trung y Triết giang 1984,4:166). 6.Trị ung thư: dùng dầu Nha đảm tử chế thành thuốc tiêm tĩnh mạch đã thử nghiệm dược lý trên cơ thể nhận thấy thuốc có tác dụng đối kháng với nhiều loại tế bào ung thư. Theo kết quả báo cáo của 16 đơn vị đã dùng trị 388 ca ung thư thời kỳ giữa và cuối, tỷ lệ có kết quả 71,6%. Đối với ung thư thực quản, dạ dày, trực tràng, cổ tử cung có kết quả nhất định, đối với ung thư phổi đã di căn lên não có tác dụng kéo dài tuổi thọ. Thuốc còn có tác dụng miễn dịch và làm tăng tế bào bạch cầu (Trung quốc y dược báo 1985). Liều lượng thường dùng và cách dùng: Theo sách Trung dược học: Mỗi lần 10 - 15 hạt (trị sốt rét), 10 - 30 hạt (trị lî), hoặc 1,5 - 2,0g bỏ vỏ dùng nhân. Thuốc rất đắng không nên cho vào thuốc sắc mà cho vào bọc nhựa uống. Hoặc ép bỏ dầu chế thành hoàn hoặc viên. Dùng ngoài tùy yêu cầu. Liều trẻ em 1 hạt cho mỗi tuổi. Thuốc gây kích ứng dạ dày và ruột, hại gan thận, bệnh khỏi nên ngưng thuốc ngay, không được kéo dài. Không nên dùng đối với bệnh nhân mắc bệnh gan, thận, có tiền sử chảy máu ruột dạ dày, tỳ vị hư nhược. Cách dùng thuốc theo sách của GS Đỗ tất Lợi: Viên Nha đảm tử 5mg: Trẻ em 1 tuổi: ngày 2 - 4 viên. Trẻ 2 tuổi: ngày 3 - 6 viên. Trẻ 3 tuổi: ngày 4 - 8 viên. Trẻ 4 tuổi: ngày 5 - 10 viên. Trẻ trên 4 tuổi dùng viên Nha đảm tử 20 mg, mỗi ngày 5 - 10 viên. Có thể uống 15 - 20 viên chia nhiều lần uống, mỗi lần 1 - 2 viên. http://caychumngay.com.vn/productView_426__742.html

49-TRỊ UNG THƯ ĐỆ NHẤT Sầu đâu cứt chuột lá tươi[11]

49-TRỊ UNG THƯ ĐỆ NHẤT Sầu đâu cứt chuột lá tươi[11] Đâm nhuyễn lượt nước uống mười,chín tháng Ung thư hoặc bệnh đau gan Tiểu đường, suy thận mười thang bớt liền Bền tâm uống tiếp liên miên Chỉ trong vài tháng bệnh liền hết ngay Thuốc đắng đã tật mầu thay Nhiều người uống hết nhờ ai mách giùm Trên đây là thuốc gia truyền Thần y Phật dược không tiền mà hay Bà con cô bác nghe đây Cứu người thoát chết công dầy đức cao Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#135-TOA%20THU%E1%BB%90C%20TR%E1%BB%8A%20NHI%E1%BB%80U%20CH%E1%BB%A8NG%20B%E1%BB%86NH%20UNG%20TH%C6%AF,M%C3%81U%20CAO,TI%E1%BB%82U%20%C4%90%C6%AF%E1%BB%9CNG,M%C3%81U%20C%C3%93%20M%E1%BB%A0,%20%C4%90AU%20GAN,SUY%20TH%E1%BA%ACN,NHI%E1%BB%86T%20V.V%E2%80%A6#ixzz2fd6VauXi

96-TRỊ UNG THƯ GAN

96-TRỊ UNG THƯ GAN 1-Lá sầu đâu (cứt chuột)[20] Đem mau sắc uống tươi Trị gan bị ung thư Năm bảy lần hết tuyệt. 2-Cây chó đẻ phơi khô Sắc lấy nước uống thường Trừ ung thư gan thận Trị cả tiểu đường cao máu 3-Bồ công anh lấy rễ Đem sắc uống thường xuyên Trị gan thận ung thư Mà cũng trừ tê thấp. Read more: http://news.tnn.vn/News/home/Nongthon/Caythuoc/2012/5/58D#135-TOA%20THU%E1%BB%90C%20TR%E1%BB%8A%20NHI%E1%BB%80U%20CH%E1%BB%A8NG%20B%E1%BB%86NH%20UNG%20TH%C6%AF,M%C3%81U%20CAO,TI%E1%BB%82U%20%C4%90%C6%AF%E1%BB%9CNG,M%C3%81U%20C%C3%93%20M%E1%BB%A0,%20%C4%90AU%20GAN,SUY%20TH%E1%BA%ACN,NHI%E1%BB%86T%20V.V%E2%80%A6#ixzz2fd1kFcUq

người xưa dùng chữa ung thư như: Gừng, Bồ công anh, , cải củ, mướp đắng, Trinh nữ hoàng cung, Dừa cạn, thông đỏ, tỏi, nghệ, xả…

Các chuyên gia hóa sinh ở Mỹ, Thụy Điển, Canađa…đã phân tích những thảo dược mà người xưa dùng chữa ung thư như: Gừng, Bồ công anh, , cải củ, mướp đắng, Trinh nữ hoàng cung, Dừa cạn, thông đỏ, tỏi, nghệ, xả…thì thấy ngoài các chất cần cho tế bào cơ thể phát triển và chống lại sự lây nhiễm bệnh thì các thảo dược đó còn có rất nhiều chất chống ung thư hiệu nghiệm hơn các hóa chất chữa ung thư do các hãng dược tổng hợp ra. Điều này chứng minh rằng người xưa dùng thảo dược chữa khỏi bênh ung thư là hoàn toàn tin được vì các chất trong thảo dược vừa làm cho tế bào không bệnh và tế bào mới không bị tăng sinh lại vừa tiêu diệt tế bào đã bị nhiễm bệnh. Có thể xem các thảo dược,nhân sâm,đông trùng hạ thảo, mướp đắng, Trinh nữ hoàng cung … là cơ hội lớn để người bênh chọn lựa trong việc phòng chống ung thư. Điều quan trọng là dùng thảo dược thì chữa cả u lành lẫn u ác mà không gây hại cho người bệnh. vậy cơ sở chúng tôi đã bào chế thảo dược thành phẩm để trị cho tùy căn bệnh mà gia giảm theo sát triệu chứng. khi cần điều trị.nhằm phòng và chống bệnh khi sảy ra.

Ăn hành ngừa ung thư

Ăn hành ngừa ung thư Ngày đăng: 29/10/2008 Số lượt xem: 48 Người đăng: sonbigb Không chỉ đơn thuần là đồ gia vị cho các món ăn thêm phần thơm ngon và đẹp mắt, hành còn là loại thực phẩm có tác dụng đặc biệt trong việc chống lại bệnh tật, đặc biệt là các bệnh ung thư. Các nhà khoa học Ý và Thụy Sĩ đã tiến hành nghiên cứu về tác dụng của cây hành đối với sức khoẻ cơ thể dựa trên việc theo dõi phản ứng của cơ thể khi cho hơn 2/3 số người dân sống ở phía bắc 2 nước này sử dụng hành thường xuyên trong các bữa ăn hàng ngày trong vòng 5 năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy sử dụng loại thực phẩm này trong việc chế biến các món ăn giúp làm giảm đáng kể số lượng người mắc các căn bệnh nguy hiểm, trong đó có cả bệnh ung thư. Tỉ lệ giảm tương ứng là : ung thư vòm họng giảm 84%, ung thư ống thực quản giảm 88% và ung thư thanh quản giảm tới 83%. Ngoài ra phụ nữ dùng hành thường xuyên trong các món ăn sẽ làm giảm 25% nguy cơ mắc bệnh ung thư vú và 56% nguy cơ mắc các bệnh về đường ruột. Thành phần dinh dưỡng tự nhiên có trong hành lá và hành củ cũng giống với tỏi, giúp tăng cường sức đề kháng, giầu các axít amin chống lão hoá tế bào. Chất kháng sinh allicin có trong hành có công dụng diệt khuẩn, sát trùng, ngăn ngừa quá trình hình thành và phát triển của các tế bào ung thư trong cơ thể. http://www.vaas.org.vn/

Saturday, September 21, 2013

Tác dụng kì diệu của vỏ chanh

Tác dụng kì diệu của vỏ chanh Xem kết quả: / số bình chọn: 52 Bình thườngTuyệt vời Chanh là một loại trái cây tự nhiên có tác dụng chữa nhiều bệnh từ tất cả các phần của cây chanh, quả chanh, đặc biệt là vỏ chanh. Những lợi ích của chanh không chỉ có ở nước chanh (mỗi buổi sáng nên uống một cốc nước chanh ấm hoặc uống một cốc trà chanh vào mỗi tối) mà ngay cả vỏ chanh cũng có lợi cho sức khỏe. Chanh không những kích thích vị giác mà nó đặc biệt tốt cho da và tóc, vỏ chanh có các tinh dầu và chứa các enzyme có thể giúp cuộc sống của chúng ta lành mạnh hơn nhiều. Vỏ chanh, vỏ cam có thể sấy khô để chế biến các món ăn hoặc dùng cho các loại mỹ phẩm. Vỏ chanh được cho là có tác dụng ngăn ngừa và chữa đối với các vấn đề về tim, mụn trứng cá, cholesterol, bệnh còi cọc, và nhiều hơn nữa... Nó bao gồm các enzym thiết yếu, vitamin, và khoáng chất như vitamin C, vitamin P, canxi, kali, chất xơ, limonene, axit citric, flavonoid polyphenol, và salvestrol Q40... có tác dụng làm cho cơ thể cũng như tâm trí được sảng khoái. Ngoài vỏ chanh, vỏ cam quýt cũng được cho là tốt cho tâm trạng con người vì chúng cũng chứa các tinh dầu. Dưới đây là một số ứng dụng quan trọng và lợi ích của vỏ chanh. Làm giảm nồng độ cholesterol Tiêu thụ của vỏ chanh giúp giảm mức cholesterol trong cơ thể, thúc đẩy sức khỏe tim mạch tốt hơn. Kali trong vỏ chanh thực sự giúp trong việc duy trì huyết áp. Polyphenol flavonoid làm giảm cholesterol LDL (cholesterol xấu). Các vitamin C và vitamin P cũng giúp đỡ trong thanh toán bù trừ các mạch máu, từ đó sẽ ngăn chặn hoặc giảm thiểu những rủi ro phát triển các bệnh như huyết áp cao, bệnh tim và bệnh tim bệnh tiểu đường. Chống ung thư Như đã đề cập trước đó, vỏ chanh bao gồm các thành phần được gọi là salvestrol Q40 và limonene, được biết đến có tác dụng chiến đấu chống lại các tế bào ung thư trong cơ thể. Ngoài ra, chất flavonoid có trong vỏ chanh có hiệu quả kiềm chế sự phân chia của tế bào ung thư, nên nó được coi là một biện pháp ngăn chặn sự phát triển của các loại bệnh ung thư bao gồm ung thư vú, ung thư ruột kết và ung thư da. Một nghiên cứu cho thấy rằng tiêu thụ trà nóng với vỏ chanh đã được chứng minh là mang lại lợi ích trong việc ngăn ngừa sự phát triển của các tế bào ung thư. Cải thiện sức khỏe của xương Để xương mạnh mẽ và khỏe mạnh cần một lượng canxi, và chanh vỏ lại có nhiều canxi và vitamin C. Tiêu thụ vỏ chanh được chứng minh là hữu ích trong việc ngăn ngừa các rối loạn khác nhau như loãng xương, viêm khớp dạng thấp, gãy trong xương, viêm đa khớp và viêm xương khớp. Tăng cường miễn dịch và tiêu hóa mạnh hơn Điểm mấu chốt của việc duy trì một cơ thể khỏe mạnh và bảo vệ chính mình khỏi bị nhiễm trùng và các bệnh là phát triển một hệ thống miễn dịch mạnh mẽ. Vỏ chanh chắc chắn có thể giúp bạn làm điều đó. Vỏ chanh có thể chống lại nhiễm trùng, điều trị cảm lạnh, cúm, đau họng, và nhiễm trùng có tính chất tương tự. Không chỉ vậy, tiêu thụ vỏ chanh cũng rất hữu ích để thúc đẩy một hệ thống tiêu hóa khỏe mạnh vì nó bao gồm chất xơ thúc đẩy ruột khỏe mạnh. Tốt cho sức khỏe răng miệng và vệ sinh Thiếu vitamin C sẽ dẫn đến các vấn đề răng miệng, chảy máu nướu răng và viêm nướu... Vỏ chanh giàu axit citric nên có thể ngăn chặn răng và nướu vấn đề liên quan. Đó là lý do tại sao, thay vì ném vỏ chanh đi, bạn nên ăn nó. Trung hòa các gốc tự do Các gốc tự do là các electron lẻ hiện diện trong các tế bào của cơ thể, chịu trách nhiệm cho sự xuất hiện của một số loại ung thư, các vấn đề tim, lão hóa, sưng, và các bệnh tự miễn dịch... Các vitamin C hiện diện trong vỏ chanh đóng một vai trò rất quan trọng trong việc trung hòa các gốc tự do nên có thể ngăn chặn vấn đề trên. Mặt khác, các gốc tự do cũng có thể được liên kết với các mạch máu gây tổn hại sức khỏe. Đó là lý do tại sao bạn nên bổ sung vitamin để duy trì lưu thông máu khỏe mạnh. Cho làn da khoẻ mạnh Hầu hết các vấn đề về da như nếp nhăn, sắc tố da, mụn trứng cá... được coi là những dấu hiệu nổi bật của lão hóa. Vỏ chanh là một nguồn tự nhiên của vitamin C và axit citric, giúp làm sạch các mạch máu trong cơ thể và loại bỏ tất cả các tạp chất có mặt trong các tế bào da. Điều này thực sự thúc đẩy một làn da khỏe mạnh, giảm mụn trứng cá và giải độc cho da. Tăng cường trao đổi chất và khuyến khích giảm cân Vỏ chanh bao gồm một thành phần được gọi là pectin, giúp giảm cân. Pectin thực sự có tác dụng giảm hấp thụ quá nhiều đường, do đó, giúp duy trì cân nặng của bạn. Các lợi ích khác Những lợi ích của vỏ chanh tiêu thụ không chỉ giới hạn ở những gì đã được đề cập ở trên mà vỏ chanh còn chứa nhiều chất dinh dưỡng cần thiết mà có thể thúc đẩy tăng trưởng móng tay, làm sạch gan, cải thiện lưu thông máu, giúp đỡ trong việc đối phó với nhiễm trùng tai, mao mạch dễ bị tổn thương, giãn tĩnh mạch, co cơ, đột quỵ ... Cảnh cáo Mặc dù tiêu thụ vỏ chanh không có hại nhưng bạn cũng nên lưu ý rửa sạch vỏ chanh trước khi dùng để tránh các loại thuốc thuốc trừ sâu hay thuốc hóa học trên vỏ. http://www.phongkhamdongy.com/vo-chanh.html

Xáo tam phân - "cây thần dược" có thể trị 5 loại ung thư

Xáo tam phân - "cây thần dược" có thể trị 5 loại ung thư Ngày 3-12, Sở Y tế Khánh Hòa báo cáo UBND tỉnh kết quả nghiên cứu của Viện Dược liệu - Bộ Y tế về cây xáo tam phân (tên khoa học là Paramignya trimera, dân địa phương gọi là “cây thần dược”) do sở cung cấp mẫu. Theo đó, xáo tam phân có các thành phần: flavonoid, saponin, alcaoid và chủ yếu là courmarin và triterpenoid. Các thí nghiệm cho thấy xáo tam phân có tác dụng ức chế tốt viêm gan cấp ở thí nghiệm trên chuột nhắt trắng; có tác dụng ức chế, tiêu diệt đối với 5 dòng tế bào ung thư: ung thư gan Hep-G2, ung thư đại tràng HTC116, ung thư vú MDA MB231, ung thư buồng trứng OVCAR-8 và ung thư cổ tử cung Hela (mạnh nhất với ung thư gan Hep-G2 và ung thư cổ tử cung). Với độc tính thấp, xáo tam phân khá an toàn khi sử dụng. Tuy nhiên, Sở Y tế Khánh Hòa sẽ tiếp tục đề nghị Bộ Y tế và cơ quan liên quan hướng dẫn các bước cần thiết nhằm khẳng định tác dụng điều trị (trên người) của cây thuốc này. Nhiều tháng qua, nhiều người dân thị xã Ninh Hòa - Khánh Hòa uống nước sắc xáo tam phân để trị nhiều loại bệnh. Trong đó, nhiều bệnh nhân có kết quả tốt. * Mời đọc thêm bài phân tích sâu hơn về cây xáo tam phân >>> "Cây thần dược" tiêu diệt được 5 dòng tế bào ung thư “Cây thần dược” (xáo tam phân) lấy ở rừng Hòn Hèo, thị xã Ninh Hòa - Khánh Hòa http://chuaphuclam.vn/index.php?/suc-khoe/xao-tam-phan-cay-than-duoc-co-the-tri-5-loai-ung-thu.html

Cây Lược vàng là thảo dược quý trong điều trị u vú, phì đại tuyến tiền liệt

Cây Lược vàng là thảo dược quý trong điều trị u vú, phì đại tuyến tiền liệt Hiện tại, tôi và một số bệnh nhân bị mắc bệnh u phì đại tuyến tiền liệt đã qua một lần giải phẫu. Nhưng mới chỉ hơn một năm bệnh có triệu chứng tái phát. Siêu âm hai, ba lần bác sĩ đều kết luận: “U lành nhưng đã tái phát”. Đáng lo ngại, vì tuổi đời chúng tôi đều đã bảy, tám mươi, đâu phải mỗi chốc mà đem ra mổ xẻ được. Đó là chưa kể chi phí rất tốn kém, không phải gia đình nào cũng có điều kiện về tài chính. Vậy là, “có bệnh phải vái tứ phương”, đầu năm 2013, tôi may mắn được các con cháu công tác trong Nam mang biếu quà là trà túi lọc Tâm Lan. Đọc thành phần thấy có lá cây Lược vàng (20%). Tôi uống đều đặn mỗi ngày, mới chỉ dùng hết hai hộp (mỗi hộp 30 gói) đi tiểu không thấy buốt nữa, ăn ngon, ngủ yên, tinh thần sảng khoái… không còn thấy hiện tương phì đại tuyến tiền liệt tái phát. Cánh bạn già chúng tôi bị mắc bệnh u phì đại tuyến tiền liệt bảo nhau dùng trà Tâm Lan có thành phần lá Lược vàng đã đẩy lui được bệnh tật, nên suy tôn Lược vàng là loại thần dược rất quý. Ngô Đức Hiếu (Phố Tam Thịnh, thị trấn Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh. ĐT: 0333740103) http://congthongtinhvnclc.vn/pages/Doanh-nghiep-thong-bao.aspx?pg=Doanh-nghiep&cat=14&id=136&cid=25&name=THAO-DUOC-QUY-DIEU-TRI-UNG-THU

Điều trị hỗ trợ ung thư bằng thảo dược

Điều trị hỗ trợ ung thư bằng thảo dược Đông y đã có nhiều kinh nghiệm quý để điều trị một số thể ung thư, ức chế các khối u phát triển. Trong khi các nhà khoa học tìm cách bào chế thuốc chữa ung thư từ thảo dược, bệnh nhân có thể sử dụng một số cây thuốc để hỗ trợ điều trị bệnh này. cd Cây đương quy Nhật Bản. Thuốc cổ truyền trị ung thư thường có các vị: đương quy Trung Quốc, đương quy Nhật Bản, phụ tử, đinh hương, uy linh tiên, trinh nữ hoàng cung, đu đủ, tam thất, nghệ và những vị khác. Đương quy: Cây đương quy Nhật Bản (Angelica acutiloba) đã được di thực, thuần hóa tại nước ta. Thí nghiệm trên động vật cho thấy, hợp chất polysacharid từ rễ cây này có tác dụng phục hồi miễn dịch đối với những tổn thương do hóa trị; giúp thương tổn cấu trúc của lách và tủy xương phục hồi gần bằng mức bình thường. Trong ống nghiệm, polysacharid đương quy làm tăng lượng tế bào lim-phô T nói chung và tế bào lim-phô T hoạt động, đồng thời phục hồi khả năng tạo hồng cầu của tế bào này. Thử nghiệm lâm sàng cho thấy đương quy bảo vệ hệ thống miễn dịch đối với những bệnh nhân ung thư vòm họng đang điều trị bằng tia xạ. Thuốc làm tăng sức đề kháng, tăng chất lượng hồng cầu và hạn chế sự suy giảm tỷ lệ huyết sắc tố. Trên bệnh nhân ung thư vú đang điều trị bằng tia xạ và hóa chất hoặc trên bệnh nhân ung thư các loại đang dùng đa hóa trị liệu, polysacharid đương quy với liều 1 g mỗi ngày có tác dụng bổ trợ miễn dịch, giúp phục hồi sớm một số dòng tế bào máu (bạch cầu, tiểu cầu, tế bào lim-phô T) đã bị giảm do trị liệu với hóa chất và tia xạ. Nghệ: Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh nghệ có tác dụng dự phòng ung thư dạ dày, ung thư da, ung thư vú và ung thư gan; giảm số lượng và kích thước các ổ ung thư. Hoạt chất curcumin chiết xuất từ củ nghệ có khả năng dự phòng và điều trị ung thư do ngăn chặn sự tăng sinh của nhiều loại tế bào u khác nhau. Curcumin còn có tác dụng chống viêm và chống ôxy hóa mạnh. Trong thử nghiệm lâm sàng trên bệnh nhân ung thư, việc sử dụng currumin với liều 10 g/kg tỏ ra an toàn, không gây những tác dụng không mong muốn. Chàm lá nhỏ: Một loại thuốc viên của y học cổ truyền Trung Quốc bào chế từ chàm lá nhỏ và một số vị khác đã được dùng điều trị bệnh bạch cầu tủy bào mạn tính. Chàm lá nhỏ được chứng minh là thành phần chính có tác dụng chống căn bệnh này. Chất indirubin trong chàm lá nhỏ có hiệu quả điều trị rõ rệt với khối u ở động vật và với bệnh bạch cầu tủy bào mạn tính trên người. Hoàng liên, hoàng bá: Là các dược liệu chứa berberin, có trong bài thuốc trị ung thư của y học cổ truyền Trung Quốc. Berberin ức chế sự sinh trưởng tế bào u gan ở người, làm chậm sự tăng sinh các tế bào bệnh bạch cầu trên động vật thí nghiệm và các tế bào ung thư vòm họng, ung thư dạ dày, các tế bào bệnh bạch cầu tiền tủy bào, các tế bào ung thư miệng và ung thư kết tràng. Hoàng cầm: Hoàng cầm có trong bài thuốc trị ung thư của y học cổ truyền; chứa các flavonoid, baicalein, baicalin, wogonin và wogonosid...Baicalin ức chế sự sinh trưởng các tế bào u gan của người và các tế bào ung thư tuyến tụy. Baicalin, baicalein và wogonin có tác dụng độc hại đối với các tế bào ung thư bàng quang ở người và động vật thí nghiệm, trong đó baicalin có tác dụng mạnh nhất. Baicalein cũng ức chế sự tăng sinh của 3 dòng tế bào ung thư gan của người, nhiều dòng tế bào ung thư tiền liệt tuyến, các tế bào bệnh bạch cầu lym-phô và các tế bào ung thư vú ở người. Baicalein và wogonin làm thuyên giảm u não, ngăn chặn sự xâm nhập và di căn các tế bào u hắc sắc tố. Vân mộc hương: Vân mộc hương có bài thuốc chống ung thư của y học cổ truyền, chứa các hoạt chất lappadilacton, dehydro-costuslacton và costunolid, có tác dụng độc hại đối với các dòng tế bào ung thư gan của người. Tam thất, trinh nữ hoàng cung, đu đủ: Trên mô hình gây u báng thực nghiệm trên động vật bằng cấy tế bào ung thư ác tính, cao chiết tam thất và chế phẩm panacrin sản xuất từ tam thất, trinh nữ hoàng cung, đu đủ đã làm giảm sinh khối của u báng, do đó làm giảm tốc độ phát triển khối u. Panacrin hạn chế sự di căn của tế bào ung thư và kéo dài thời gian sống của động vật mang khối u được điều trị với thuốc lên gần gấp đôi. Chỉ thiên: Deoxyelephantopin từ chỉ thiên ức chế đáng kể sự phát triển của ung thư biểu mô. Dihydroelephantopin ức chế sự phát triển những tế bào ung thư bệnh bạch cầu. Các bài thuốc: Chữa di căn bệnh bạch cầu lim-phô: Cỏ chỉ thiên trộn với muối và giấm, giã nhỏ và đắp vào nơi tổn thương. Điều trị hỗ trợ ung thư cho bệnh nhân không bị giảm thể trọng: Đương quy 15 g, bạch thược 10 g, nghệ 10 g, vân mộc hương 6 g, đinh hương 5 g. Sắc uống ngày một thang, chia 3 lần. Chữa u báng và kết hạch: Xạ can 10 g, nghệ đen 8 g, xuyên khung 6 g. Sắc uống ngày một thang. Trị bệnh bạch cầu hạt: Bột chàm mỗi lần uống 0,9-1,5 g, ngày 3 lần. Trị bệnh bạch cầu tủy bào mạn tính: Đương quy 15 g; hoàng liên, hoàng bá, hoàng cầm mỗi vị 10 g; vân mộc hương, bột chàm mỗi vị 5 g. Sắc uống ngày một thang, chia làm 3 lần uống. Điều trị hỗ trợ ung thư các cơ quan đường tiêu hóa, ung thư vú, ung thư tử cung: Đương quy 15 g; bạch thược, gừng mỗi vị 10 g, vân mộc hương 4 g, đinh hương 4 g. Sắc uống ngày một thang, chia làm 3 lần uống. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống) http://giadinh.vnexpress.net/tin-tuc/song-khoe/dieu-tri-ho-tro-ung-thu-bang-thao-duoc-2259582.html

Dược phẩm hỗ trợ điều trị ung thư nguồn gốc thảo mộc

Dược phẩm hỗ trợ điều trị ung thư nguồn gốc thảo mộc Hiện nay, rất nhiều nghiên cứu hướng đến việc ứng dụng các thuốc nguồn gốc thảo mộc để dự phòng và điều trị ưng thư một cách riêng rẽ hoặc kết hợp với thuốc trị ung thư nguồn gốc hóa dược để làm tăng hiệu quả điều trị, làm giảm bớt độc tính và các tác dụng không mong muốn. Sau đây xin giới thiệu một số thuốc nguồn gốc thảo mộc: Quercetin từ hoa hòe [Cây chè] Cây chè Quercetin là một flavonoid có hoạt tính mạnh nhất so với các flavonoid khác, và nhiều cây thuốc, trong đó có cây hòe, có tác dụng chữa bệnh do chứa hàm lượng cao quercetin. Quercetin có tác dụng chống ôxy hóa, chống viêm, làm giảm sự tăng sinh tế bào gây chết tế bào theo chương trình. Quercetin có tác dụng hiệp đồng với thuốc hóa dược trị ung thư triozofurin trên các tế bào ung thư biểu mô buồng trứng của người. Có thể dùng liều triazofurin thấp hơn trong liệu pháp kết hợp, do đó làm giảm các tác dụng không mong muốn. Quercetin cũng làm tăng tác dụng của thuốc hóa dược trị ung thư carboxytriazol trên tế bào ung thư biểu mô vú người, và làm tăng hoạt tính chống tăng sinh của thuốc hóa dược busulfan. Quercetin ức chế sự tạo thành cụm tế bào ở tế bào bệnh bạch cầu người, do đó có thể sử dụng liệu pháp kết hợp này trong điều trị bệnh bạch cầu cấp tích. Catechin từ cây chè Chè xanh chứa epigallocatechin gallat (EGCG), hợp chất này được coi là hoạt chất trong chè xanh có tác dụng dự phòng bệnh ung thư. EGCG gây sự chết tế bào theo chương trình và ức chế men cyclooxygenase và do đó ức chế sự tăng sinh của tế bào ung thư. Sulindac là một thuốc chống viêm không steroid được dùng làm thuốc dự phòng bệnh ung thư, nhưng việc sử dụng bị hạn chế do có nhiều tác dụng không mong muốn trong đó có tác dụng gây xuất huyết đường tiêu hóa. Hoạt tính gây sự chết tế bào theo chương trình của EGCG trên tế bào ung thư phổi tăng lên một cách hiệp đồng khi dùng kết hợp với các thuốc hóa dược dự phòng bệnh ung thư như sulindac và tamoxifen. Curcumin từ nghệ Curcumin được chiết xuất từ thân rễ các loài nghệ có tác dụng chống viêm, chống u và chống ôxy hóa. Curcumin có các cơ chế tác dụng là phong bế sự khởi đầu sinh ung thư hoặc ngăn chặn sự biểu hiện ác tính của các tế bào khởi đầu, ngăn chặn nhiều yếu tố phiên mã. Curcumin có tác dụng cộng hợp với thuốc trị ung thư hóa dược doxorubicin, làm tăng tác dụng kháng u và tác dụng gây sự chết tế bào theo chương trình của cisplatin trên ung thư biểu mô buồng trứng. Nhiều chất diệt sinh vật độc hại làm tăng nguy cơ ung thư vú ở phụ nữ. Curcumin từ nghệ và genistein từ đậu nành có tác dụng ức chế một cách hiệp đồng sự tăng sinh tế bào ung thư gây bởi 17 beta-estradiol. Có thể áp dụng các biện pháp dự phòng bằng các chất bổ sung thực phẩm (curcumin từ nghệ và genistein từ đậu nành) để điều trị các loại ung thư có liên quan đến nội tiết tố và làm giảm khả năng gây ung thư của các chất diệt sinh vật độc hại có hoạt tính estrogen. Genistein từ đậu nành Genistein là một estrogen thực vật từ đậu nành có khả năng là một thuốc hóa trị liệu gây sự chết tế bào theo chương trình do ức chế enzym topoisomerase, ức chế sự tạo mạch hoặc ngăn chặn các enzym kích thích phát triển u như cyclooxygenase. Genistein có tác dụng ức chế sự tăng sinh tế bào ung thư biểu mô vú người. Genistein có tác dụng chống tăng sinh một cách hiệp đồng với thuốc trị ung thư tamoxifen trên tế bào ung thư vú. Như vậy, có thể sử dụng genistein để điều trị dự phòng ung thư vú ở phụ nữ. Genistein còn được chứng minh có tác dụng phòng ngừa ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới và ung thư dạ dày ở cả nam giới và nữ giới. GS. Đoàn Thị Nhu theo nguon : http://suckhoedoisong.vn/2008128155318476p44c60/duoc-pham-ho-tro-dieu-tri-ung-thu-nguon-goc-thao-moc.htm

Mãng cầu xiêm - Thần dược trị ung thư

Mãng cầu xiêm - Thần dược trị ung thư? > Thực hư mãng cầu diệt ung thư gấp vạn lần hóa trị > Mãng cầu gai ngừa bệnh ung thư, tim mạch TP - Việc một trường đại học ở Hàn Quốc công khai nghiên cứu mới đây về mãng cầu xiêm khiến cả thế giới giật mình. Theo nghiên cứu này, mãng cầu xiêm có thể trị ung thư. Đây là loại quả rất phổ biến ở Việt Nam. Tính mạng của chúng ta lâu nay được phó thác cho các biện pháp chữa trị hiện đại. Trong ảnh: Chăm sóc bệnh nhân bị ung thư tại BV Đại học Y Hà Nội. Ảnh: Ngọc Châu Tính mạng của chúng ta lâu nay được phó thác cho các biện pháp chữa trị hiện đại. Trong ảnh: Chăm sóc bệnh nhân bị ung thư tại BV Đại học Y Hà Nội. Ảnh: Ngọc Châu. Mãng cầu xiêm diệt tế bào ung thư cao gấp 1 vạn lần so với hóa chất phổ biến nhất hiện nay Khi phóng viên Tiền Phong đặt câu hỏi với một số chuyên gia về ung thư có tiếng và nhà hóa học nhiều năm nghiên cứu các hợp chất thiên nhiên ở Việt Nam, họ đều có chung câu trả lời: Có nghe nói, nhưng chưa có bất kỳ quan tâm riêng nào về học thuật đến mãng cầu xiêm. Đăng ký làm việc với Cục Khoa học Công nghệ&Đào tạo của Bộ Y tế, lãnh đạo cục cũng tỏ ra thận trọng và đề nghị gửi bộ câu hỏi để nghiên cứu trước. Trước làn sóng của các tiến bộ y khoa, loài người gần như dần trở nên lãng quên các phương thức và sản phẩm chữa bệnh truyền thống. Thế nhưng, tại Mỹ - một trong những trung tâm tây y lớn nhất thế giới, mấy chục năm qua đang âm thầm tìm hiểu giá trị chữa bệnh thần kỳ của các sản phẩm thiên nhiên. Một trong những minh chứng điển hình là họ lao vào khám phá khả năng chữa bệnh ung thư của một loại hoa quả rất phổ biến ở các nước nhiệt đới, trong đó có Việt Nam, cây và quả mãng cầu xiêm. Mãng cầu xiêm là một loại cây thấp, chiếm rất ít diện tích đất. Tại Brazil, nó được gọi với tên graviola. Vùng châu Mỹ La Tinh gọi nó là soursop và các nước nói tiếng Anh cũng lấy tên soursop để gọi quả nhiệt đới thần kỳ này. Theo chị Huyền, người từng chuyên bán mãng cầu xiêm ở Dịch Vọng, Từ Liêm (Hà Nội), thứ quả to này có thịt màu trắng, vị chua lẫn ngọt, có hột tách ăn dễ dàng, có thể ép ra làm đồ uống hoặc ăn trực tiếp. Giá bán hiện thời ở Hà Nội dao động ở mức 25.000-30.000 đồng/kg. Khám phá Từ lâu, mãng cầu xiêm được lưu truyền trong dân gian như là một thứ quả chữa được nhiều bệnh, trong đó có khả năng làm tiêu tan các khối u. Nhưng cơ sở khoa học của nó thì hầu như chưa ai có, dù nhiều người biết nó có thể là tác nhân kháng khuẩn hữu hiệu, chống nhiễm khuẩn và nhiễm nấm, điều hòa cao huyết áp, dùng để tẩy giun và chống các ký sinh trùng đường ruột. Thậm chí, nó còn được cho là có khả năng chống suy nhược, mệt mỏi, và rối loạn thần kinh. Người ta ngày nay càng bị lệ thuộc vào các liệu pháp tây y trong khi các giá trị chữa bệnh truyền thống ít được quan tâm hơn Lương y Vũ Quốc Trung Chiết xuất từ các thành phần cây mãng cầu xiêm cho thấy, chúng không gây buồn nôn, giảm cân hay rụng tóc; chúng có tác dụng bảo vệ hệ miễn dịch, phục hồi nhanh các nhiễm khuẩn nặng. Đáng chú ý, tất cả các thành phần của mãng cầu xiêm đều được cho là hữu ích, từ lá, rễ, cùi trong quả, và hạt. Từ hàng thế kỷ nay ở Nam Mỹ, chúng được sử dụng để chữa hàng loạt chứng bệnh nói trên, trong đó có cả các bệnh liên quan tim, hen, và viêm khớp. Nghiên cứu đầu tiên thuộc về Viện Ung thư Quốc gia Mỹ và được thực hiện từ năm 1976. Kết quả cho thấy, cả lá và cọng mãng cầu xiêm đều chứa các hoạt chất có khả năng tấn công hiệu quả và tiêu diệt các tế bào ác tính. Vì lý do nào đó, các kết quả thu được cũng bị ém nhẹm và không thấy công bố rộng rãi. Từ đó, mãng cầu xiêm liên tục được thử nghiệm tại nhiều phòng thí nghiệm khác nhau. Con số được báo chí xác định đến nay là 20 cơ sở nghiên cứu độc lập đã can dự vào hoài nghi bí ẩn và hấp dẫn này. Kết quả thật bất ngờ, hầu như tất cả các nghiên cứu độc lập ấy đều khẳng định tác dụng chống ung thư rõ rệt. Mặc dù chưa có các nghiên cứu đối chứng, chưa thực hiện các phép kiểm tra chuyên môn gọi là kiểm tra mù (hay mù đôi). Các nhà nghiên cứu đều nhận định thành phần tự nhiên trong mãng cầu xiêm có thể tiêu diệt tới 12 loại tế bào ung thư, trong đó có ung thư đường ruột, vú, tiền liệt tuyến, phổi, và tuyến tụy. Một nghiên cứu tại Đại học Purdue gần đây nhất cũng đưa ra kết luận tương tự Giấu kín Câu hỏi đặt ra là khi các nghiên cứu về đặc tính chống ung thư của mãng cầu xiêm được tiến hành dồn dập, tại sao nhiều người lại không hay biết? Tại sao các chuyên gia ung thư, các bệnh viện không khuyến cáo bệnh nhân sử dụng sản phẩm này? Từ lâu mãng cầu xiêm được lưu truyền trong dân gian như là một thứ quả chữa được nhiều bệnh, trong đó có khả năng làm tiêu tan các khối u Từ lâu mãng cầu xiêm được lưu truyền trong dân gian như là một thứ quả chữa được nhiều bệnh, trong đó có khả năng làm tiêu tan các khối u. “Câu trả lời đơn giản là tính mạng của chúng ta lâu nay được phó thác cho các biện pháp chữa trị hiện đại”, lương y Vũ Quốc Trung nói. Cũng theo ông Trung, người ta ngày càng bị lệ thuộc vào các liệu pháp tây y, trong khi các giá trị chữa bệnh truyền thống vừa ít được quan tâm hơn vừa bị không ít người hành nghề y học cổ truyền làm mất uy tín lĩnh vực thực sự còn nhiều huyền bí này. Ông Trung từng là chuyên gia công tác trong ngành sinh học hiện đại thuộc Bộ Lương thực trước đây. Khoảng chục năm trở lại đây, nhiều công ty dược âm thầm cố gắng tổng hợp hai thành phần có tác dụng chống ung thư hiệu quả trong cây mãng cầu xiêm. Nếu hai thành phần ấy được phân lập, sẽ là cơ hội kiếm hàng tỷ đô-la Mỹ lợi nhuận. Tuy nhiên, có một bức tường vô hình hầu như không cơ sở nghiên cứu nào có thể vượt qua. Kết quả là, không ai bảo ai, tất cả đều mặc định ém nhẹm toàn bộ nghiên cứu của mình. Thành phần chống ung thư trong mãng cầu xiêm là sản phẩm hoàn toàn tự nhiên, không phải qua quá trình điều chế hay tổng hợp nào cả. Theo luật liên bang ở Mỹ, các sản phẩm thiên nhiên như thế không được cấp bằng sáng chế. Như vậy, hầu như không công ty nào được bảo vệ khi nghiên cứu của họ được công bố, nếu họ không có bằng độc quyền. Đột phá Vì lý do đó, các nghiên cứu đều bị các công ty ém nhẹm. May mắn thay, một nhà khoa học tham gia nghiên cứu quyết định tiết lộ bí mật này vì lý do đạo đức nghề nghiệp. Trước tiên, ông tiếp cận với các công ty nghiên cứu độc quyền về quả thần kỳ ở vùng Amazon Nắm được thông tin này, các nhà nghiên cứu ở Viện Khoa học Y tế Mỹ bắt tay ngay vào tìm hiểu nguồn cơn. Họ đã ngạc nhiên về những gì được phát hiện trong phòng thí nghiệm. Nhưng kết quả nghiên cứu cũng lại bị giấu nhẹm và đã gây cơn giận dữ trong công chúng Mỹ. Chỉ cho đến thời gian gần đây, khi Tạp chí các Sản phẩm Thiên nhiên công bố nghiên cứu của Trường Đại học Cơ đốc giáo của Hàn Quốc, bí mật của các nghiên cứu mới dần được làm sáng tỏ. Kết quả ở Hàn Quốc còn bất ngờ hơn khi các nhà nghiên cứu nhận định, bằng việc làm chậm sự tăng trưởng của tế bào ung thư, thành phần trong mãng cầu xiêm có tác dụng ức chế tế bào ung thư rất mạnh. Hiệu quả của nó cao gấp 10.000 lần so với adriamycin, sản phẩm hóa trị liệu đang được dùng phổ biến trên thế giới hiện nay. Gần 40 năm kể từ nghiên cứu đầu tiên ở Viện Ung thư Quốc gia Mỹ trôi qua, bí ẩn các nghiên cứu mới được phô bày. Mãng cầu xiêm do nhiều nông dân ở miền trung và miền Nam nước ta trồng đã có mặt ở khắp các nơi trong cả nước. Nhưng đến giờ, chúng ta vẫn chưa có được sản phẩm bào chế từ mãng cầu xiêm vốn đang xuất hiện khá nhanh và nhiều ở Mỹ như một công cụ điều trị và ngăn ngừa ung thư. Số báo ngày mai, Tiền Phong sẽ trích giới thiệu một báo cáo đặc biệt của Viện Khoa học Y tế Mỹ giải thích vì sao mãng cầu xiêm có thể tạo ra cuộc cách mạng mới trong cuộc chiến chống ung thư. http://www.tienphong.vn/Suc-Khoe/633034/Mang-cau-xiem---Than-duoc-tri-ung-thu-tpp.html

Tuesday, September 17, 2013

Nước cam có thể chống ung thư

Nước cam có thể chống ung thư Cập nhật lúc 08h55' ngày 17/09/2013 Share on facebook More Sharing Services Xem thêm: nước cam, chống ung thư, tác dụng của nước cam, bệnh bạch cầu, tác dụng sinh học của nước cam, phòng chống ung thư vú, phòng chống ung thư ruột kết Các nhà khoa học mới đây đã công bố kết quả nghiên cứu tác dụng chống ung thư của nước cam. Nó có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh bạch cầu ở trẻ em, chống lại ung thư vú và ung thư ruột kết ở người trưởng thành. Nước cam có nhiều tác dụng tích cực đến ung thư. Nó chứa các chất thuộc nhóm flavonoid như hesperitin và naringinin. Những nghiên cứu trong phòng thí nghiệm đã chỉ ra rằng nước cam làm giảm bệnh bạch cầu ở trẻ em, cũng như chống lại bệnh ung thư vú, ung thư gan và ruột kết. Nước cam có thể chống ung thư Nước cam có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh bạch cầu ở trẻ em, chống lại ung thư vú, gan và ung thư ruột kết. Ảnh: insideintercom.io Tác dụng sinh học của nước cam trong nghiên cứu ở phòng thí nghiệm chủ yếu bị ảnh hưởng bởi thành phần, trong khi thành phần lại phụ thuộc vào điều kiện như khí hậu, đất, phương pháp thu hoạch, lưu trữ trái cây… Tuy nhiên, nếu sử dụng quá nhiều thì nước cam sẽ thể hiện độc tính, đặc biệt với trẻ em. Nó có thể làm tăng huyết áp, gây tổn thương thận và bệnh tiểu đường, làm tăng nồng độ kali trong máu và có thể gây ra dị ứng thực phẩm và làm bùng phát vi khuẩn nếu nước cam chưa được tiệt trùng. “Sử dụng quá nhiều một loại thực phẩm, ngay cả khi nó là thực phẩm an toàn cũng có thể gây mất cân bằng trạng thái oxy hóa”, các nhà nghiên cứu cảnh báo. Hiện các nhà nghiên cứu đang tiếp tục nghiên cứu sâu hơn mối liên kết sinh học giữa nước cam và khả năng chống ung thư. Họ đang tìm hiểu chi tiết về loại giống cây trồng cũng liều lượng nước cam phù hợp cho người sử dụng. Nhiều nghiên cứu khác đã chứng tỏ hiệu quả phòng chống ung thư của nước cam, nó chứa các chất chống oxy hóa như antimutagenic, antingenotoxic, cytoprotective và nội tiết tố. Nước cam cũng có tác dụng kháng khuẩn, kháng virut và điều chỉnh sự hấp thụ xenobiotics – là những chất lạ không cần thiết cho cơ thể. http://www.khoahoc.com.vn/doisong/yhoc/49045_Nuoc-cam-co-the-chong-ung-thu.aspx